Bạn đang xem bài viết Cách Sử Dụng Texture Trong Photoshop được cập nhật mới nhất trên website Utly.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Sẵn có Contest X [Áo dài] kì này, mình cũng xin giới thiệu luôn cách sử dụng Texture, 1 hiệu ứng dành cho Blend ảnh cực đơn giản nhưng hiệu quả thì tuyệt vời. Nó làm cho ảnh cực lung linh, rất phù hợp cho phong cách tuổi teen hiện nay. Đặc biệt, nó cũng giúp tạo ra những Bokeh (hiệu ứng chụp ảnh của máy DSLR)…Nói chung là tùy vào từng bức ảnh và từng phong cách bạn muốn mà có những kiểu texture khác nhau, từ lung linh cho đến kinh dị 😀Và ở bài TUT mình sưu tầm này thì hiệu ứng sẽ là lung linh và rất phù hợp cho Contest X kì này đấy ♥ Chủ yếu trong bài tut này sẽ hướng dẫn cách dùng texture, gradient, pattern và text.
Đầu tiên cái bạn cần là nguyên vật liệu :
Bước 1:
+ Nhấp Ctrl+J để nhân đôi bacground (1)
+ Trong ô blending mode chuyển thành overlay (3)
+ Đặt thông số như hình phía dưới (chú ý những ô đánh dấu đỏ)
Bước 3: Sử dụng Texture:
+ Tải hình này về:
+ Ô blend mode đặt là Soft light , tạo lớp mặt nạ bằng cách nhấp vào ô đánh dấu như hình dưới (2) dùng cọ mềm (3) màu đen xóa bớt trên khuôn mắt cô gái.(Mục đích là cho bớt sáng , tạo sự hồng hào trên khuôn mặt.)
Bước 4: Sử dụng Texture thứ 2
+ Ở ô blend mode chuyển sang chế độ Screen + Lặp lại tương tự như bước trên và đặt vào mỗi góc + Tạo lớp mặt nạ (như bước 3) để xóa những đường viền ko cần thiết
Bước 5:
+ Tạo một layer mới bằng cách nhấp Ctrl + shift +N + Nhấp shift + F5 . Trong ô Use chọn Black
+ Đặt thông số như hình:
+ Dùng phím V di chuyển layer xuống góc trái màn hình . Đồng thời đặt chế độ blend mode là Lighten
Bước 6: Sử dụng Gradient
+ Trên thanh công cụ kích chọn Gradient tool ( hoặc phím G)
+ Kích đúp vào ô Gradient để hiện bảng Gradient E**or
+ Chọn màu đầu tiên là #FCE700, màu thứ 2 là #FFFFFF
+ Sau đó kéo từ góc phải phía trên xuống . Đặt chế độ Blend mode là Soft light. Opacity là 48%
Bước 7. Sử dụng Pattern + Ctrl+ shift+ N ( tạo layer mới) + Ctrl + shift+ Alt+ E (nhóm tất cả layer lại) + Đặt thông số giống hình dưới:
Bước 8: Tạo text
+ Trên bàn phím kích chọn phím T + Kéo chéo mũi tên trên ảnh để tạo hình chữ nhật + Gõ text của bạn vào đấy (Ở đây tôi sử dụng font VNI – Allegie) + Để tạo cho text có độ sáng thì bạn đặt thông số như hình dưới:
Chỉnh sửa , blend thêm một chút ta được kết quả:
Source: YeuBlog
Ảnh demo:
Cách Sử Dụng Filter Trong Photoshop
Box Blur: Box Blur là một dạng làm nhòe ảnh dựa theo giá trị màu trung bình của các pixel xung quanh, rất hữu ích cho việc tạo ra các hiệu ứng đặc biệt. Có thể hiệu chỉnh độ nhòe bằng cách tăng giảm kích thước vùng màu trung bình của các pixel.
Gaussian Blur: Nhanh chóng làm nhòe vùng chọn theo mức độ có thể điều chỉnh. Giá trị Radius càng cao thì mức độ nhòe càng mạnh. Box Blur và Gaussian Blur nhìn qua rất khó phân biệt nhưng nếu bạn tăng mức độ Blur từ từ thì sẽ thấy: Box Blur làm mờ hình ảnh từ các biên màu, còn Gaussian Blur thì làm mờ theo kiểu đồng dạng hóa các màu sắc cạnh nhau.
Lens Blur: Lens Blur bổ xung độ nhòe vào hình ảnh để tạo ra hiệu ứng cho một vùng có chiều sâu hẹp hơn, vì thế một vài đối tượng trên hình ảnh thì tập trung, còn các vùng khác thì nhòe xung quanh. Lệnh này giống như ứng dụng lấy nét của máy ảnh kỹ thuật số hoặc camera của smart phone.
Motion Blur: Làm nhòe theo hướng cụ thể từ -360 độ đến +360 độ và cường độ xác định từ 1 – 999. Hiệu ứng của bộ lọc này như chụp ảnh đối tượng đang chuyển động.
Radial Blur: Đây là một hiệu ứng rất mạnh. Làm nhòe một cách đa dạng và phong phú hơn theo hướng nan hoa, tỏa tia.
Shape Blur: Hiệu ứng Shape Blur cho phép làm nhòe theo một hình shape được chỉ định.
Shape này chỉ áp lên từng pixel nên dù chọn blur theo hình nào thì sự khác biệt đều không rõ ràng để ta thấy được.
Smart Blur: Làm nhòe chính xác hình ảnh. Làm nhiệm vụ tinh lọc các mảng màu. Nó chuyển hóa hình ảnh về dạng đơn giản của các pixel màu, nói ngắn gọn là đơn sắc hóa các mảng hình ảnh, biến hình chụp sau khi chuyển có dạng như tranh vẽ màu nước.
Surface Blur: Hiệu ứng Surface Blur cho phép làm nhòe, tạo bề mặt mịn, trơn nhẵn, gỡ bỏ các hạt chấm chấm mà vẫn bảo toàn chi tiết các cạnh.
Polar Coordinates: Chuyển vùng chọn từ tọa độ vuông góc sang tọa độ cực và ngược lại.
Ripple: Tạo hiệu ứng gợn sóng lăn tăn trên vùng chọn hoặc toàn hình ảnh.
Shear: Làm biến dạng hình ảnh dọc theo đường cong.
Spherize: Biến dạng hình ảnh theo khối cầu, phạm vi tỏa ra từ tâm đến cạnh biên của toàn vùng chọn/ hình ảnh, không giống như lệnh Pinch – chỉ tác động 1 vùng nhỏ tính từ tâm tỏa ra.
Twirl: Xoáy hình ảnh mạnh dần về phía tâm. Hiệu ứng này giúp tạo ra những background độc đáo.
Wave: Tạo gợn sóng mạnh.
3 – Noise: Là một nhóm các bộ lọc có chức năng chính là điều chỉnh các pixel trên hình ảnh bị hạt, tạo hạt hoặc khử hạt.
Add Noise: Bộ lọc Add Noise có chức năng tạo hạt cho hình ảnh, làm hình ảnh trông như tranh cát hoặc giả lập độ mịn, độ nét…
Despeckle: Bộ lọc Despeckle phát hiện phần bị hạt giữa các mảng khác màu giao nhau và làm mờ nó đi để giảm nhiễu hạt, nhưng vẫn giữa lại độ nét trung bình cho các chi tiết của tổng thể. Do Despeckle không có bất cứ tùy chọn gì nên nó vô tình “bào nhẵn” luôn cả nền và viền của chi tiết (dù không nhiều).
Dust & Scratches: lọc giảm nhiễu hạt trực quan bằng cách thay đổi các điểm ảnh liền kề nhau bằng các điểm màu chiếm đa số trong mảng đó.
Median: Bộ lọc Median gom các điểm ảnh có độ sáng và màu sắc tương đồng nhau thành từng mảng đồng nhất, giúp loại bỏ hoặc làm giảm sự xuất hiện của các điểm ảnh bị nhiễu hoặc những đốm màu không mong muốn.
Reduce Noise: Bộ lọc này hỗ trợ giảm nhiễu hạt màu sắc và nhiễu hạt độ sáng, với hệ thống điều chỉnh 2 tầng: Basic và Advanced.
Color Halftone: đưa ảnh về dạng pixel dạng tròn.
Crystalize: Bộ lọc này phân mảnh hình ảnh thành những pixel có dạng đa giác (ngẫu nhiên) xếp khít (sát cạnh) nhau.
Facet: Trên lý thuyết, bộ lọc Facet tạo một lớp như các khối màu đặc. Bạn có thể sử dụng bộ lọc này để làm một hình ảnh trông như quét sơn bằng tay hoặc một bức tranh trừu tượng. Hãy đưa hình ảnh về độ phân giải thấp và thử dùng bộ lọc này bạn sẽ thấy kết quả.
Fragment: Hình ảnh sau khi áp bộ lọc Fragment thì trông hơi mờ đục và tinh mịn, mục đích triệt tiêu độ sắc cạnh của các pixel.
Mezzotint: đưa mỗi pixel về màu cơ bản theo dạng Dot, Line, Stroke.
Mosaic: phân mảng hình ảnh thành những hình vuông đơn sắc.
Pointillize: Tương tự như cách hoạt động cua các bộ lọc trên, bộ lọc Pointillize phân mảng hình ảnh thành các điểm ngẫu nhiên, bắt dính cũng ngẫu nhiên tạo cảm giác như các điểm màu đang trôi nổi trên trang làm việc.
Clouds: Tạo mây bằng cách dùng các giá trị ngẫu nhiên biến đổi giữa màu foreground và background.
Difference Clouds: Vẫn là hiệu ứng Clouds trên nhưng kết hợp với chế độ hòa trộn Difference. Cũng không có thêm tùy chọn nào, kết quả cũng ngẫu nhiên, vì là Difference nên màu sắc kết quả có xu hướng sậm màu hơn so với màu foreground và background.
Fibers: Lệnh Fibers kết hợp màu foreground và background để giả lập các dạng chất liệu sợi, bố,…được kết thành từng thớ liên tục.
Lighting Effects: Bộ lọc Lighting Effects cho phép bạn hiệu chỉnh kiểu chiếu sáng, loại nguồn sáng, thuộc tính chiếu sáng và kênh chứa mẫu kết cấu.
Sharpen: Làm sắc nét hình ảnh cơ bản, chế độ tự động, áp dụng chung cho cả hình ảnh, không có chọn lọc và cũng không cung cấp bất cứ tùy chọn nào.
Sharpen Edges: Tương tự như Sharpen, nhưng tập trung nhiều vào nét viền, đường biên đối tượng trong ảnh, cũng tự động và không có tùy chọn nào khác.
Sharpen More: Mỗi lần áp dụng là mỗi lần tăng Sharpen lên 1 bậc.
Smart Sharpen: Bộ lọc làm sắc thông minh này có 2 chế độ: Basic (cơ bản) và Advanced (chuyên sâu).
– Amount: mức độ làm sắc cạnh. Các pixel mang màu sắc trung gian được tạo ra nên nếu Amount càng lớn thì các pixel càng dày đặc, sự khác biệt so với ảnh gốc càng rõ ràng.
– Radius: Độ xoay hay vát sắc cạnh của pixel. Thông số này tốt nhất đừng vượt quá 5px.
– Remove: giúp loại bỏ các yếu tố gây nhiễu như: Gaussian Blur, Lens Blur, Motion Blur (chỉ có Motion Blur là áp dụng được độ Angle bên dưới nó)
– More Accurate: độ sắc cạnh được chính xác hơn, đồng nghĩa sẽ bị răng cưa nhiều hơn, nên nếu bạn đã cho thông số Radius cao và áp dụng Remove thì không nên chọn cái này.
Thẻ Shadow (áp dụng cho vùng tối màu) và Highlight (áp dụng cho phần sáng màu)
– Fade Amount: độ “phai” của mảng màu sáng/ tối. Các pixel trung gian mang màu sát với tông sáng/ tối chủ đạo hơn, nên dù có tăng thông số này lên thì cũng thay đổi không nhiều, nhưng hình ảnh trông sẽ mượt hơn, không quá gắt như Amount của Basic.
– Tonal Width: độ trải của màu sáng/ tối chủ đạo.
– Radius: độ chênh lệch giữa các mảng pixel.
Unsharp Mask: chế độ làm sắc mạnh hơn Smart Sharpen. Thông số Amount và Radius giống như trên, nhưng vì bộ lọc này chỉ “mạnh” chứ không có nhiều tùy chọn “sâu” như Smart Sharpen nên việc nhiễu răng cưa là không thể tránh. Nhờ có tùy chọn Threshold, khử răng cưa do 2 thông số trên tạo ra, “mài nhẵn” các vùng nhiễu hạt hay tán sắc. Threshold có thể dao động từ 0 đến 255 levels, nhưng khi Radius < 10, Threshold sẽ mất tác dụng nếu thông số vượt quá 100.
7 – Stylize Diffuse: Xáo trộn, phân tán các điểm ảnh gần nhau khiến cho vùng chọn bớt sắc nét.
Embos: Khiến cho vùng chọn có vẻ nổi lên hoặc lõm xuống bằng cách chuyển dạng màu tô thành màu xám và đồ lại các cạnh bằng màu tô nguyên thủy theo sắc độ trắng – đen.
Extrude: Tạo nên các hình khối lập phương hoặc kim tử tháp trên hình ảnh ban đầu, trông như hiệu ứng vụ nổ phân mảnh đều. Tuy nhiên, nó vẫn bảo toàn được màu sắc của ảnh.
Find Edges: Đồng nhất hình ảnh bằng nền trắng, căn cứ vào độ chênh lệch chuyển tiếp từ các vùng màu tối và màu sáng để xác định viền và làm nổi bật viền bằng màu tối hơn. Những viền càng đậm, càng rõ ràng tức là vị trí tại đó có độ chênh lệch màu sắc giữa sáng tối càng lớn.
Solarize: Pha trộn một ảnh âm bản với một ảnh dương bản tương tự như khi một bản in đang được phơi sáng. Tiles: Phân mảng hình ảnh thành một loạt những mảnh ghép và dịch chuyển chúng lệch đi (ngẫu nhiên) một chút. Trace Contour: Tìm những sự chuyển tiếp giữa các khu vực sáng nhất và vẽ nét viền mảnh lên đó bằng các kênh màu khác nhau.
– Vị trí có độ tương phản sáng – tối càng cao thì màu tại đó càng đậm.
– Màu sắc của viền tuy nói là theo kênh màu nhưng thực tế là mang màu tương phản với màu của hình ảnh gốc. Wind: Tạo ra các vạch ngang rất nhỏ trên ảnh để giả lặp hiệu ứng gió tạt.
8. Other Custom: Mặc dù tên gọi là “tùy biến” nhưng thực chất ta chỉ tác động lên độ sáng/ tối của hình ảnh bằng cách áp cho khu vực tại đó 1 con số cụ thể.
Cơ chế hoạt động: hình ảnh được (giả lập) phân chia thành 25 ô (gọi là khu vực “ma trận”) như trong cửa sổ tùy chọn. Nếu muốn vùng nào đó trên hình ảnh sáng hơn thì điền tại ô đó 1 con số dương, muốn vùng đó tối hơn thì điền 1 con số âm. Số càng lớn thì vị trí đó trên hình sẽ càng sáng/ tối. Con số sử dụng trong khoảng từ -999 đến 999, hiệu ứng phản sáng rất mạnh nên hầu như ta chỉ sử dụng trong khoảng -50 đến 50. Những ô liền kề nhau, thuộc những mảng màu gần gần giống nhau (tương đồng sắc độ) thì độ chính xác của những ô số sẽ không cao. Chúng ta không cần phải điền số vào hết tất cả các ô.
– Scale: độ tản sáng của các điểm ảnh. Scale dao động từ 1 đến 9999. Khi Scale = 1, các điểm ảnh sẽ ở mức sáng cực đại của thông số đã nhập vào ma trận. Bởi vậy khi ma trận chứa những con số càng lớn thì hình ảnh bị cháy sáng càng gắt, bị vỡ hạt, thậm chí các nét trong hình bị lệch biên. Khi tăng Scale = 2, độ sáng của các điểm ảnh được chia đôi, cứ thế, càng tăng scale thì độ sáng càng giảm theo hệ nhị phân.
– Offset: độ bù màu cho Scale. Nếu Scale chỉ nhắm vào việc khuếch trương độ sáng cho những điểm ảnh tại những vùng được điền số trong ma trận, thì Offset sẽ giữ lại màu sắc của hình ảnh và tán sáng đều ra cho toàn hình ảnh. Offset hiệu quả hơn khi thông số lớn hơn Scale trong khoảng từ 1 đến 40 đơn vị. Vượt ngoài khoảng này, hình ảnh sẽ bị mờ hoặc mất màu.
Điều tuyệt vời của bộ lọc Custom này là hình ảnh trông sẽ nét hơn khi bạn áp dụng hài hòa những thông số trong ma trận, Scale và Offset.
Ngoài ra, Custom còn cho phép Save lại tùy chỉnh như 1 dạng mẫu để những lần sau có thể Load lên dùng tiếp. Maximum: Bộ lọc Maximum nhận dạng và khuếch trương phạm vi ảnh hưởng của những pixel mang độ sáng cao nhất từ rộng dần đến cực đại.
Minimum: Nếu Maximum tập trung vào những điểm sáng thì Minimum lại tập trung khuếch trương những điểm tối, và tương tự, Radius của nó cũng rất mạnh.
Offset: Đúng như tên gọi: Offset (bù vào), bộ lọc này căn cứ vào tọa độ, chi tiết, màu sắc đường biên của hình (hoặc vùng chọn) để bù vào khoảng trống được tạo ra do di chuyển tọa độ hình gốc mà ta đã đặt cho các thông số.
Cách Sử Dụng Layer Trong Photoshop
Cho đến lúc này mọi thứ chúng ta thực hành đều được thao tác trên Background Layer. Có thể bạn nhận ra rằng làm việc với Background layer rất không thú vị. Bất cứ thao tác nào bạn tiến hành trên Background Layer đều thay đổi đơn vị Pixel của Background và cách duy nhất để Undo là sử dụng History Palette. Khi bạn biết thêm về layer trong PTS, một kỷ nguyên mới của PTS đang mở ra vơi bạn. Vậy! Layer là cái gì?
Bạn có thể tưởng tượng rằng mỗi Layer trong một tài liệu như là một tấm phim trong suốt. Khi bạn vẽ lên bất kỳ một tấm phim nào, bạn vẫn có thể nhìn xuyên qua những vùng chưa được vẽ của tấm phim đó. Khi bạn chồng các tấm phim lên nhau, vùng được vẽ của tấm phim thấp hơn vẫn được thể hiện xuyên qua vùng trong suốt của tấm phim ở trên nó. Trong PTS, Layer trong suốt được thể hiện dưới dạng các ô kẻ ca rô trắng và xám (trừ khi file ảnh của bạn chứa Background). Vùng kẻ carô đó không phải là một phần của văn bản, nó chỉ có tác dụng chỉ cho bạn biết đó là vùng trong suốt.
Hình bên thể hiện 3 layer chồng lên nhau. Hình ngôi sao, con bướm và con cá là nội dung của mỗi layer. Bạn có thể nhìn thấy bằng trực giác rằng con cá ở dưới cùng, con bướm ở giữa và ngôi sao ở trên cùng. PTS chỉ xử lý riêng biệt từng layer, do vậy bất cứ một thao tác trên layer nào, chỉ có tác dụng trên layer đó.
Layer Palette hiển thị thứ tự của các layer trong tài liệu của bạn dưới dạng những hình thu nhỏ để giúp bạn xác định những layer dễ dàng hơn. Như đã nói từ trước, bạn chỉ có thể thao tác từng layer một. Layer đang được kích hoạt sẽ có màu xanh như hình dưới.
Hơn nữa, layer đang kích hoạt sẽ có thêm một biểu tượng “paintbrush” ở bên trái của hình thu nhỏ. Nháy kép vào layer trong Layer Palette cho phép bạn truy nhập Layer Style. Bạn có thể đổi tên cho Layer bằng cách nháy kép vào layer đó.
Mặc dù bạn chỉ có thể thao tác trên từng layer một, nhưng có một số cách mà có thể thao tác trên một vài layer. Ví dụ, di chuyển layer, copy layer giữa các tài liệu và căn chỉnh layer. Để thao tác những lệnh này, bạn cần phải link các layer mà bạn muốn làm việc với.
Bạn hãy nhìn vào hàng nút ở dưới cùng của Layer Palette. Những nút này (từ trái qua) làm việc với hiệu ứng layer (layer effect), thêm vào Layer Mask, nhóm các layer vào một tập layer (layer set), tạo và điều chỉnh layer, tạo một layer thông thường, và xoá layer. Bây giờ chúng ta chỉ bạn đến hai nút cuối cùng.
Nếu bạn nhấp chuột vào nút Delete Layer, bạn sẽ được hỏi để xác nhận rằng bạn thực sự muốn xoá nó. Nếu bạn muốn xoá một layer mà không cần xác nhận, nhấp và kéo layer đó trong Layer Palette và thả nó vào biểu tượng thùng rác.
Khi bạn nhấp vào nút New Layer, một layer mới được tạo ra nằm trên layer đang được kích hoạt. Layer mới sẽ được đặt tên theo mặc định là Layer 1, Layer 2 v.v.. Nếu bạn muốn đặt tên cho layer khi bạn tao ra nó, giữ phím Alt khi bạn nhấn vào biểu tượng New Layer. Để tạo ra một layer nằm ở dưới layer đang được kích hoạt, giữ phím Ctrl và nhấp vào nút New Layer. Nếu bạn muốn cùng một lúc tạo một layer mới nằm dưới layer đang được kích hoạt và đặt tên cho nó, kết hợp Ctrl-Alt và nhấp vào nút tạo layer.
Để nhanh chóng tạo ra một bản sao của một layer, kéo layer đó từ Layer Paletee và thả nó vào nút New Layer. Layer mới được tạo ra sẽ có tên giống như Layer gốc, nhưng có thêm chữ “copy”. Nếu bạn muốn cùng một lúc sao chép và đặt tên cho nó thì giữ phím Alt khi kéo và thả nó vào nút New Layer.
Để thay đổi vị trí của các layer, bạn chỉ việc nhấp và kéo nó đến vị trí mà mình muốn trong Layer Palette. Một ô vuông sẽ xuất hiện cho bạn biết nơi nào layer sẽ được đặt khi bạn kéo chuột. Xem hình.
Bây giờ chúng ta hãy khám phá tuỳ biến của Layer Palette ở trên cùng của nó.
Để bắt đầu việc thực hành bạn nên lưu ảnh này lại để thực tập.
Bạn có thể điều chỉnh mức độ Opacity bằng thanh trượt hoặc điền giá trị số bằng bàn phím, ví dụ 75 = 75% Opacity. Chú ý rằng thanh trượt được ẩn ở mũi tên cạnh giá trị số, nháy vào đó một lần thanh trượt sẽ xuất hiên.
Thiết lập chế độ Opacity là kiểm soát độ trong suốt của layer, tuy nhiên, bạn có thể có những mức độ trong suốt khác nhau trên cùng một layer, thậm chí ngay cả khi Layer đó được cài đặt ở mức 100% Opacity. Bạn làm bằng cách sử dụng công cụ Painting tool, Eraser, Layer Mask v.v.. Có rất nhiều công cụ Painting Tool trong PTS có riếng mức độ Opacity độc lập hoàn toàn với Opacity của layer. Hy vọng là những phần trên không làm các bạn rối trí, vì phần tối chúng ta bàn đến công dụng của Transparency Lock và nó rất dễ gây nhầm lẫn.
Bên dưới Blend Mode và Opacity bạn có một loạt các hộp kiểm để khoá nhiều tính năng thao tác.Từ trái qua phải những nút khoá này có công dụng sau:
transparency, image pixels, position, and all of the above.
Bất cứ khi nào mộ trong các khoá này được kích hoạt, bạn sẽ thấy một biểu tượng cái khoá nhỏ xuất hiện bên phải của layer trong Layer Palette. Khi tất cả các khoá được kíck hoạt, biểu tượng đó sẽ chuyển sang “đen xì”. Nó sẽ không cho phép bạn thay đổi gì trừ phi Background layer phải được “nâng cấp” thành Layer.
Transparency Lock cho phép bạn thao tác trên một layer nhưng không cho phép bạn thay đổi mức độ trong suốt của layer đó. Cách tốt nhất để giải thích là bằng ví dụ.
Trong file ảnh mà chúng ta đang làm việc, thiết lập mức độ Opacity cho một layer bất kỳ là 50%.
Hãy lấy một màu (tôi dùng màu xanh lá cây) và Fill layer đó với màu đó.
kết quả là toàn bộ layer được tô màu và cho layer đó một mức độ Opacity là 50% xanh trong ví dụ của tôi.
Bây giờ Undo thay đổi đó và đánh dấu vào hộp kiểm Transparency lock. Tô layer đó với màu của bạn một lần nữa. Lần này chỉ có một layer được tô màu, và layer này vẫn giữ nguyên giá trị Transparency mà bạn đã tô cho nó là 50%.
Transparency Lock thực chất không khó để hiểu, nhưng nó rất dễ gây nhầm lân nếu bạn chọn nó tại một lúc nào đó và quên là hộp kiểm đang được đánh dấu. Bất cứ khi nào bạn thấy một công cụ nào đó không có những hiệu ứng như bình thường, bạn nên kiểm tra xem nó hoặc bất cứ những khoá khác đang được kích hoạt hay không trước khi …. cà cuống!
Image Pixel Lock vô hiệu hoàn toàn công cụ Painting tool vào layer đó. Bạn vẫn có thể di chuyển và Transform nội dung của layer, điều chỉnh mức Opacity, và thay đổi Blend mode nhưng bạn không thể vẽ trực tiếp lên nó.
Position Lock thì bạn tự khám phá lấy. Bạn không thể di chuyển hoặc Transform một layer khi nó bị Position Lock, nhưng bạn vẫn có thể vẽ, áp dụng Layer Effect và thay đổi Blend Mode
The position lock is self explanatory. You can’t move or transform a layer that has its position locked, but you can still paint on it, apply layer effects, and change blend modes.
Và như bạn đoán, cái cuối cùng tương đương với tất cả những cái trên khi chúng đều được chọn.
Những PTS phiên bản trước 6.0 đều có giới hạn là 100 Layer, nhưng từ PTS 6.0 trở lên giới hạn đó không còn nữa, thực chất bạn có thể có tới 8000 layer (bao gồm layer sets và layer effect).
Layer chỉ được bảo quản khi bạn lưu file ảnh dưới định dạng của PTS là PSD. Khi làm việc với những file ảnh chứa nhiều layer, tốt hơn hết là bạn nên lưu 1 bản với định dạng của PTS để sau này còn sửa chữa. Để giảm dung lượng của một file và để cho nó tương thích với các trình xử lý ảnh khác bạn luôn luôn cần lưu nó lại với một định dạng khác tuỳ theo mục đích sử dụng.
Trong PTS 6.0, bạn có thể dùng Save As và file ảnh sẽ bị tự động Flatten khi bạn chọn một định dạng khác với định dạng của PSD hoặc PDF. Một thông báo sẽ xuất hiện để báo cho bạn biết một vài dữ liệu của bức ảnh sẽ mất nếu một định dạng nào đó không hỗ trợ layer.
Hiện nay có một số chương trình hỗ trợ định dạng của PTS là PSD, nhưng không phải hoàn toàn cho nên trước khi mở định dạng của PTS trong một ứng dụng khác, bạn nên đơn giản hoá các layer càng nhiều càng tốt. Bạn có thể Flatten file ảnh bằng tay hoặc dùng lệnh Merge. Chúng ta sẽ học về lệnh này trong những bài học sau.
Bạn nên chú ý rằng chế độ màu của một file ảnh có thể tác động đến sự tương tác giữa các layer. Vì lý do này, bất cứ khi nào bạn biến định dạng PTS từ một chế độ màu này qua chế độ khác, bạn sẽ được thông báo là phải Flatten file ảnh trước. Bạn có thể tiếp tục mà không cần Flatten nhưng chú ý rằng kết quả sẽ thay đổi rất nhiều phụ thuộc vào layer effect gì và Blending Mode nào mà bạn đã sử dụng. Dĩ nhiên nếu bạn không thích kết quả đó bạn có thể Undo những thay đổi và Flatten file ảnh trước khi thay đổi chế độ một lần nữa.
2 Di chuyển, Copy và Transform layer. Khi bạn đã bắt đầu làm việc với Layer, một công cụ trở nên rất quan trọng đó là Move Tool. Lệnh gõ tắt cho nó là V. Bạn có thể tạm thời chuyển sang chế độ di chuyển dù cho bất cứ công cụ nào đang được kích hoạt bằng cách nhấn phím Ctrl. Trường hợp ngoại lệ là Pen Tool, Hand Tool, Slice và Shape Tool trong PTS 6+
Move tool được dùng để di chuyển nội dung của Layer, nhưng nó cũng được sử dụng để chọn layer và copy layer. Như tất cả các công cụ chúng ta đã từng sử dụng, có một vài tổ hợp phím có thể thay đổi tính năng của Move Tool.
Giữ phím Shift xuống kết hợp với Move Tool sẽ giúp bạn di chuyển theo đường thẳng hoặc một góc 45 độ
Giữ phím Alt sẽ cùng một lúc copy một layer và di chuyển nó
Bạn có thể kết hợp hai phím Shift và Alt
Bạn có thể thao tác với nội dung của layer với lệnh Free Transform. Lệnh này làm việc cũng giống như nó làm việc với vùng lựa chọn. Khi bạn trong chế độ Free Transform, một vùng bao quanh sẽ xuất hiện xung quanh nội dung của layer và bạn có thể di chuyển, thay đổi tỉ lệ, xoay chuyển, “làm méo”, “làm lệch” và lật ngược nội dung của layer bằng cách sử dụng kết hợp chuột và bàn phím. Khi layer được link, Transformation sẽ áp dụng cho tất cả các layer, dù cho chỉ có mỗi layer đang được kích hoạt có hộp bao quanh.
Khi bạn chọn Move tool, vùng tuỳ biến của Move tool xuất hiện trên Option Bar.
Bạn sẽ nhận ra một hộp kiểm cho phép ẩn hoặc hiện vùng bao quanh ở layer được kích hoạt. Nó tạo cho vùng lựa chọn tự động dễ dàng hơn vì bạn có thể nhìn thấy chính xác layer nào đang được kích hoạt, thậm chí khi Layer Palette của bạn bị ẩn. Nó cũng rất thuận tiện cho bạn để chuyển sang chế độ Free Transform, chỉ việc rê con trỏ đến một trong những điểm của hộp bao quanh và gọi lệnh Transformation. Khi bạn chuyển sang chế độ Free Transformation, bạn sẽ nhận thấy hộp bao quanh chuyển từ những đường chấm chấm thành màu đen, và thanh Option Bar cho phép bạn điền giá trị số vào để áp dụng Transformation. Để thiết lập Transformation và thoát khỏi Transformation, nháy đúp vào hộp bao quanh, nhấn phím Enter ở vùng bàn phím số (máy desktop) hoặc nhấn vào dấu ttiick ở Option Bar. Để thoát khỏi chế độ Free Transform mà không thiết lập Transform, nhấn Esc trên bàn phím hoặc dấu “X” trong Option bar.
Từ PTS 6+ bạn sẽ nhận ra một số nút được thêm vào trên Option Bar cho Move Tool. Những nút này sẽ là màu xám trừ khi bạn có hơn 2 layer link với nhau.
Nếu Move Tool được kích hoạt và bạn nháy chuột phải vào layer, bạn sẽ nhận được một menu hiện ra nó cho phép bạn chọn các layer tại điểm của con trỏ của bạn. Hãy thử với một file ảnh của bạn bằng cách nháy chuột phải vào bất cứ điểm nào của file ảnh. Dĩ nhiên điều này chỉ hữu dụng khi bạn đặt tên cho từng layer một cách logic và bạn cũng nên thành lập một thói quen đặt tên cho layer mỗi khi tạo một layer mới.
Alt-chuột phải chọn layer ở trên cùng ngay dưới con trỏ.
Giữ phím Alt và nhấn một trong hai phím [ và ] cho phép bạn di chuyển theo thứ tự từ trên xuống dưới của các layer. Dấu ngoặc trái [ di chuyển xuống, ] di chuyển lên.
Alt-shift-[ chọn layer cuối cùng
Alt-Shift-] chọn layer trên cùng.
Quay lại với Layer và Move Tool bạn cũng có thể copy Layer giữa các tài liệu bằng cách kéo và thả chúng từ Layer Palette vào cửa sổ của tài liệu đang được mở. Tuy nhiên, nếu bạn muốn copy vài layer một lúc, bạn phải link những layer đó lại và kéo và thả chúng từ một cửa sổ của tài liệu này và thả chúng vào tài liệu khác bằng công cụ Move Tool. Bạn không thể kéo và thả nhưng layer được liên kết từ Layer Palette.
Đó chỉ là một trong những trường hợp khi bạn muốn liên kết các layer. Có những lúc bạn muốn liên kết một vài layer khi bạn muốn Merge chúng với nhau. Điều này có thể được thực hiện bằng lệnh Merge Linked trong Layer menu. Lệnh tắt của Merge layer là Ctrl-E
Trong PTS 6 có thêm một tính năng mới được gọi là Layer Set. Với Layer Set bạn có thể nhóm các layer lại với nhau để tránh sự lộn xộn trong Layer Palette và có thể thao tác một vài layer cùng một lúc. Nó có tác dụng tương tự như liên kết các Layer, nhưng có nhiều tính năng hơn bởi vì bạn có thể nhân đôi Layer Set.
Nếu bạn muốn liên kết các layer khi bạn cần căn chỉnh và phân chia chúng. Điều này cho phép bạn điều chỉnh vị trí của layer tương quan với những layer khác.
Tôi muốn giới giới thiệu ngắn gọn với bạn một vài điểm đặc trưng tiên tiến khác của layer. Tôi sẽ không đi quá sâu và vấn đề, nhưng tôi muốn cùng bạn thực hành với nó, bởi vì sau này chúng ta sẽ sử dụng đặc điểm này trong những bài học sau.
Một ứng dụng quan trọng của việc nhóm các layer là khi bạn muốn viết chữ vào một file ảnh hoặc tô màu. Bạn có thể lựa chọn text và dán vào nó, nhưng khi dòng Text đó không thể sửa chữa được nữa. Với bài tập này, tôi đã tạo ra một tài liệu với nền là màu trắng, Rainbow Gradient layer, một layer text ẩn và một layer text. Lưu file này lại rồi mở nó ra trong PTS. Bạn sẽ Fill dòng text với công cụ Gradient và áp dụng Texture. (Khi bạn mở file này trong PTS 6, bạn có thể nhận được một thông báo là một vài layer cần update. Chọn Update nếu bạn nhận được thông báo)
Do layer ở tận cùng luôn là layer bị cắt, đầu tiên bạn cần chuyển layer text xuống dưới Gradient và Texture Layer.
Sử dụng Layer Palette để kéo những layer trong trật tự từ trên xuống dưới:
Dòng chữ được tô với Gradient
Kích hoạt Texture Layer bằng cách kích chuột vào tên của nó
Nhóm layer này bằng lệnh Ctrl – G, (một cách nữa để nhóm 2 layer là nhấn phím Alt rồi kích chuột trái vào khoảng biên giữa của hai layer trong Layer Palette)
Tại thời điểm này layer Texture bị chắn bởi Gradient cho nên nó là màu trắng đen. Chúng ta sẽ sử dụng Layer Blending Mode để đổi layer Texture thành màu cầu vồng. Đổ Blending Mode của Texture Layer thành Luminosity.
Bạn đã bắt đầu thấy sự kỳ diệu của layer trong PTS chưa? cứ bình tĩnh, đây chỉ mới là điểm khởi đầu.
Layer Masks rất giống với Quick Mask hoặc Alpha Channel, nhưng chúng chỉ được liên kết với một layer đơn lẻ. Chúng có thể được chỉnh sửa và được lưu lại với tài liệu của bạn khi bạn lưu nó trong định dạng của PTS. Layer Mask có thể bắt đầu từ lúc mở tài liệ hoặc áp dụng từ một vùng đã được lựa clieej. Layer Mask rất rất hữu dụng bởi vì nó cho phép bạn áp dụng tính trong suốt lên một layer mà không phá huỷ mãi mãi layer. Miễn là Layer Mask được liên kết với một layer, tỉ lệ phân chia của layer mask có thể được ẩn hoặc hiện mà không ảnh hưởng gì tới layer bạn đầu. Layer mask là công cụ lý tưởng để đê tạo những bức ảnh hỗn hợp và dựng phim
Adjustment Layers là dạng layer đặc biệt, chúng được dùng để điều chỉnh những layer nằm ở dưới. Hầu hết những thứ ở dưới Image Adjust menu cũng có thể được áp dụng bằng cách sử dụng Adjustment Layer. Sử dụng Adjustment Layer có một lợi ích khác biệt. Bởi vì …. vì nó có thể điều chỉnh được (Adjustable). Nói cách khác, nếu bạn áp dụng Hue/Saturation Adjustment vào một file ảnh, và sau đó bạn nghĩ lại nhưng thay đổi có vẻ nhiều quá, bạn có thể nháy kép vào Adjustment Layer và quay lại với chế độ cài đặt. Thêm vào nữa, Adjustment layer được tạo ra trên layer mask, cho nên bạn có thể xoá Adjustment từ vùng được lựa chọn bằng cách Paint vào vùng Adjustment layer với màu đen. Vẽ vào Adjustment layer với màu xám cho phép bạn làm phai nhạt adjustment.
Layer Effects là những hiệu ứng đặc biệt mà có thể áp dụng vào layer. Một điều tuyệt vời của layer effect là chúng hoàn toàn có thể chỉnh sửa và rất linh động. Bạn có thể thay đổi nội dung của một layer và layer effect sẽ tự động thay đổi vì nội dung của layer đó thay đổi. Bạn cũng có thể điều chỉnh rất nhiều đặc điểm của layer effect. Layer effect được nhóm trong một hộp thoại chung gọi là “Layer Styles”, hãy tự tìm hiểu nó xem có bao nhiêu tính năng?
Photoshop 6 Fill Layers là một tính năng duy nhất của PTS 6+. Fill Layer có thể chứa một màu đặc, Gradient hoặc Pattern. Khi bạn thiết kế một layer như là một fill layer, vùng được fill có thể được thay đổi dễ dàng bằng cách nhấp vào biểu tượng của nó trên layer Palette. Fill layer cũng có Layer mask đính kèm, cho nên fill layer không thể bị tẩy xoa, chỉ bằng cách vẽ lên layer mask.
Sử Dụng Camera Raw Trong Photoshop
Camera raw chính là công cụ giúp chỉnh sửa hình ảnh tốt nhất trong Photoshop, với sự trợ giúp của Camera raw bạn có thể chỉnh sửa Blend màu, giúp làm trắng da, làm mịn da, cũng như giúp tăng độ chi tiết cho ảnh. Bài viết sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn sử dụng Camera RAW trong Photoshop một cách dễ dàng nhất.
Bật chế độ tự động mở ảnh trong camera raw trên photoshop
Để bật chế độ tự động mở ảnh trong camera trên photoshop bạn cần thực hiện các bước như sau:
Bước 1: Nhấn chuột trái vào mục Edit trong Photoshop
Bước 2: Ở đây bạn sẽ thấy một bảng chức năng sẽ xuất hiện, bạn cần phải sử dụng con trỏ chuột kéo xuống dưới dòng Preferences, sau đó nhấn chọn vào dòng Preferences.
Bước 3: Kéo con trỏ chuột xuống dòng chữ JPEG and TIFF Handling. Bạn cần lưu ý ô JPEG và hãy nhấn chuột vào ô JPEG đó và chọn dòng “Automatically open all supported JPEGs”. Điều này có nghĩa là mở tất cả các định dạng ảnh JPEG được hỗ trợ. Tiếp đến bạn cần để ý đến ô TIFF, dùng chuột nhấn vào ô TIFF và nhấn chọn dòng chữ “Automatically open all supported TIFF”, nó có nghĩa là tất các cách định dạng ảnh TIFF được hỗ trợ sẽ được mở.
Bước 4: Với những bước đơn giản như trên là bạn đã có thể mở được Camera raw để Blend màu, làm mịn, làm trắng da cho ảnh. Nhờ đó mà bạn sẽ biết được cách bật chế độ tự động mở ảnh trong Camera raw.
Giới thiệu một số phím tắt để mở camera raw trong Photoshop như sau:
Để giúp việc thực hiện mở Camera raw trong Photoshop nhanh nhất người dùng nên sử dụng phím tắt trên bàn phím máy tính. Phím tắt dùng để mở Camera raw là (Ctrl + Shift + A). Theo đó, bạn chỉ cần bấm và giữ phím tắt như trên là sẽ mở được Camera raw nhanh chóng nhất.
Các cách mở camera raw
Cách 1: Sử dụng phím tắt
Bạn có thể mở camera raw một cách rất nhanh gọn nhẹ đó là sử dụng tổ hợp phím tắt (Ctrl + Shift + A) để mở Camera raw trong tích tắc.
Cách thứ 2: Thực hiện mở camera raw mà không sử dụng đến phím tắt
Với cách này các thao tác cũng không quá phức tạp hơn so với việc sử dụng phím tắt. Bạn cần làm theo trình tự các bước sau:
Bước 1: Bạn nhấn chọn mục Filter
Việc mở camera raw vô cùng đơn giản và dễ thực hiện. Để tiết kiệm tối đa thời gian, chúng tôi khuyên bạn bạn nên sử dụng phím tắt cho tiện lợi, thể hiện được sự chuyên nghiệp.
Hướng dẫn sử dụng camera raw trong photoshop
Chỉ ở phiên bản PS và CC từ CS6 trở lên mới có chức năng Camera Raw Chính vì vậy nếu như bạn đang sử dụng photoshop mà không tìm thấy chức năng camera raw thì có nghĩa là phần mềm mà bạn sử dụng là phiên bản cũ.
Bạn phải nâng cấp phần lên phiên bản cao hơn để có thể sử dụng được chức năng này. Đây là một trong những chức năng giúp ảnh của bạn trở nên lung linh hơn rất nhiều, rất đáng để bạn thử đấy.
Bước 1: Bạn cần phải mở file cần chỉnh sửa bằng cách sau đây:
Bước 3: Chức năng của 1 số công cụ thường dùng trong camera raw
– Đây là chức năng auto, phần mềm sẽ tự tính toán và đưa ra thông số mặc định của photoshop.
– Bạn có thể tùy chỉnh lại các thông số theo ý mình muốn. Nhưng theo kinh nghiệm cá nhân của mình bạn nên chọn chức năng auto trước để xem có ưng ý không, nếu cảm thấy không hài lòng thì bạn có thể tùy chỉnh lại các thông số theo mong muốn.
Ý nghĩa cụ thể từng thông số của camera raw
Exposure: Độ phơi sáng của toàn bộ tấm ảnh sẽ được điều chỉnh với thanh công cụ này. Phần này bạn có thể tăng hoặc giảm để điều chỉnh ánh sáng cho ảnh.
Contrast: Được dùng khi bạn muốn điều chỉnh độ tương phản của tấm ảnh, phần này bạn không nên chỉnh nhiều, nên chỉnh với mức độ hợp lý.
Highlights: Thanh công cụ này chỉ dùng để điều chỉnh những vùng sáng của bức ảnh. Thông thường mục này thường được giảm xuống mức tối đa.
Shadows: Đây là công cụ được dùng để chỉnh sửa bóng đổ
Whites: Công cụ được sử dụng để chỉnh sửa ánh sáng trắng của vùng trung gian
Blacks: Công cụ chỉnh sửa đối với các vùng tối của vùng trung gian.
Clarity: Chức năng là tăng thêm độ chi tiết và tạo độ nổi khối cho bức ảnh.
Vibrance: Công cụ làm tăng thêm các màu sắc, giúp cho chúng trở nên sinh động và thu hút hơn, đặc biệt đối với các màu sắc như xanh lá mạ non, màu hồng phấn.
Saturation: Độ bão hòa của màu sắc, bạn sẽ thấy rõ được sự thay đổi của bức ảnh khi tăng hoặc giảm nhẹ thanh công cụ này.
Bước 4: Thẻ Tone Curve
Chúng ta có các thông số thẻ Tone Curve:
– Highlights: Giúp hỗ trợ người dùng trong việc điều chỉnh ánh sáng trắng vùng cao
– Lights: Được dùng để điều chỉnh toàn bộ ánh sáng của bức hình
– Darks: Dùng để chỉnh tối chung bức ảnh.
– Hardows: Để điều chỉnh vùng tối chủ yếu tác dụng lên phần bóng đổ
– Point: Phần này người dùng có thể tự lựa chọn kéo thả để chọn.
Bước 5: Thẻ Detail chính là công cụ điều chỉnh độ sắc nét cho bức ảnh.
Các thông số:
Amount: Dùng để điều chỉnh cho đối tượng trở nên sắc nét và rõ hơn.
Detail: Để tăng độ chi tiết cho bức hình. Ở thẻ này các bạn không nên tăng nhiều quá làm hình ảnh bị nhiễu thêm
Masking: Công cụ để giảm nhiễu hạt nhỏ cho toàn bộ bức ảnh. Để cho bức ảnh được nét hơn bạn có thể tăng phần này nhiều hơn một chút. Bạn sẽ thấy được sự thay đổi của bức ảnh khi kéo thanh trượt.
Luminance: Công cụ giảm nhiễu đối với những hạt to. Để ảnh không bị bết thì không nên lạm dụng chỉnh phần này nhiều.
Ngoài ra còn có các công cụ như Luminance detail, Luminance contrast, Color, Color detail là để bổ sung cho Luminance.
Bước 6: Tiến hành điều chỉnh màu sắc cho bức ảnh bằng các thẻ sau đây:
HUE: Thẻ này sẽ giúp cho người dùng có thể thay đổi màu đang có trên bức ảnh. HUE sở hữu đầy đủ toàn bộ tính chất màu của RGB, CMYK
Saturation: Công cụ này được dùng để điều chỉnh màu bổ xung đậm hoặc nhạt cho bức hình của bạn.
Luminance: Công cụ dùng để hiệu chỉnh màu cho từng vùng trên bức hình, hiệu chỉnh ở 1 vùng rộng trên bức ảnh.
Bước 7: Công cụ Spot Removal (phím tắt là B): Công cụ được sử dụng để chỉnh sửa những chi tiết bị thừa, những khuyết điểm trên hình ảnh của bạn.
Sau khi thực hiện chỉnh sửa bằng các công cụ, chúng ta có được kết quả bức hình như mong muốn.
Có thể thấy được rằng việc sử dụng camera raw giúp cho bức ảnh của bạn trở nên đẹp hơn rất nhiều với thao tác xử lý nhanh gọn và vô cùng tiện lợi. Đây là lý do mà việc nắm chắc cách sử dụng camera raw lại được nhiều người quan tâm tới như vậy khi làm việc với photoshop.
Cập nhật thông tin chi tiết về Cách Sử Dụng Texture Trong Photoshop trên website Utly.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!