Bạn đang xem bài viết Bộ Lọc Filter Render Trong Photoshop được cập nhật mới nhất trên website Utly.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
1. Nhóm bộ lọc Render : Bộ lọc Render giả lập các kiểu nguồn sáng chiếu trên hình ảnh và tạo ra một số mẫu chất liệu trong thực tế như mây, sợi…
Clouds : Tạo mây bằng cách dùng các giá trị ngẫu nhiên biến đổi giữa màu foreground và background. Lệnh này không có tùy chọn nào khác, kết quả hoàn toàn là ngẫu nhiên, bạn có thể thay đổi sự ngẫu nhiên này bằng cách nhấn tổ hợp phím Ctrl + F. Ví dụ: tôi có foreground màu trắng và background màu xanh da trời, sau khi áp lệnh, được kết quả như sau:
Difference Clouds Vẫn là hiệu ứng Clouds trên nhưng kết hợp với chế độ hòa trộn Difference. Cùng không có thêm tùy chọn nào, kết quả cũng ngẫu nhiên, vì là Difference nên màu sắc kết quả có xu hướng sậm màu hơn so với màu foreground và background. Ví dụ: tôi áp lệnh Difference Clouds cho hình được tạo ra từ lệnh Clouds phía trên (hoặc áp lên nền trắng thuần), được kết quả:
Sau khi Duplicate Layer, tôi áp lệnh Difference Clouds, sau đó dùng chế độ hòa trộn Color Burn với layer ban đầu thì được kết quả:
Màu sắc vẫn tối, nhưng trông có vẻ thần bí nhỉ?! ^ ^ Đẹp hay không tùy cách nhìn mỗi người, ở đây tôi chỉ gợi ý cho bạn cách sử dụng, đại loại kết hợp được như thế.
Fibers Lệnh Fibers kết hợp màu foreground và background để giả lập các dạng chất liệu sợi, bố,…được kết thành từng thớ liên tục.
Thông số Variance càng lớn thì độ phân mảng màu càng nhỏ, chi tiết hơn.
Thông số Strength càng lớn thì độ sọc của các mảng màu càng rõ, chi tiết hơn.
Brightness : Độ sáng của các “đèn mặt trời”.
Lens Type : Các kiểu “đèn mặt trời”, chương trình cung cấp cho ta 4 loại, bạn cứ thể nghiệm.
Có 2 cách để di chuyển vị trí “đèn mặt trời”:
Cách 1: Drag chuột ngay vị trí dấu “+” của đèn chính.
Ta cùng xem qua kết quả:
Lung linh hơn hẳn nhỉ?! ^ ^
Lighting Effects Bộ lọc Lighting Effects cho phép bạn hiệu chỉnh kiểu chiếu sáng, loại nguồn sáng, thuộc tính chiếu sáng và kênh chứa mẫu kết cấu. Bộ lọc này không áp dụng cho hình ảnh thuộc hệ màu CMYK hay ảnh xuất đã qua điều chỉnh Index.
Nếu bạn đã đọc kỹ và thao tác tốt những điều mà Homasg đã đề cập trong bài viết về Field Blur thì chắc chắn bạn sẽ bắt gặp sự tương đồng (về cách điều khiển vùng ảnh hưởng hiệu ứng) trong cửa sổ tùy chỉnh của Lighting Effects, và sẽ thấy dễ dàng hơn. Đầu tiên là thanh đặc tính:
Mục Presets: mặc định ban đầu là Default với 1 Spot Light, nếu có bất cứ thay đổi/ tác động gì sẽ tự động chuyển sang chế độ Custom, ngoài ra chương trình còn cung cấp cho chúng ta 17 loại đèn khác nữa, mỗi loại đều có cách vận dụng riêng.
Ví dụ: Five Lights Down/Up dùng như đèn sân khấu (tôi khá thích loại này, giúp tiết kiệm khá nhiều thời gian) RGB lights và Circle of Light cho chế độ hòa trộn 3 màu R – G – B độc đáo, dĩ nhiên không dừng lại ở 3 màu, chúng ta có thể thay đổi/ thêm/ bớt tùy ý… Parallel Dicrectional và Soft Direct Lights là loại đèn màu điều hướng bằng parabol, có cách sử dụng giống nhau. Loại đèn này luôn đi kèm 2 icon “mặt trời”, 1 loại quy định nguồn sang tự nhiên, 1 loại quy định nguồn sáng màu tự chọn. Parabol càng “úp” về phía icon “mặt trời” nào thì màu tại hướng đó càng gắt (đậm màu) và tối. Những loại đèn khác cũng có cách điều khiển tương tự nhau, bạn có thể tự khám phá để chọn cho mình loại đèn ưa thích.
Mục Lights: có 3 loại đèn để tạo thêm:
Add new Spot Light: tạo mới loại đèn tỏa ra từ 1 hướng trông như đèn đường hoặc đèn để bàn…
Vòng tròn lớn bên ngoài có 4 điểm Sacle, nhấn giữ chuột trái và kéo tại các điểm này để phóng to/ thu nhỏ/ xoay vùng chiếu sáng.
Vòng lớn ngoài cùng là phạm vi phủ sáng của đèn, nhấn giữ chuột trái và kéo chuột để xoay/ zoom phạm vi.
Vòng nhỏ trong là giới hạn vùng sáng nhất của đèn (hotpot), ta có thể điều chỉnh bằng cách kéo chuột trực tiếp tại vòng này hoặc thông số trên thanh Hotpot bên phần Properties bên phải.
Hình tròn Intensity trung tâm quy định độ sáng của đèn, cũng có thể điều chỉnh thông số trực tiếp trên thanh Intensity thuộc bảng Properties.
Kéo chuột tại trung tâm của hình tròn Intensity để di chuyển đèn.
Ta bàn về các đặc tính của bảng Properties:
Ngay phía dưới chữ “Lighting Effect” có phần sổ xuống, ta có thể chọn thay đổi loại đèn hiện hành, từ Spot thành Point/ Infinite hoặc ngược lại.
Tất cả giá trị đặc tính trong bảng này đều có thông số dao động từ -100 đến 100.
Color: màu nguồn sáng đèn chính, có thể thay đổi tùy ý.
Colorize: màu của phần sáng trung gian. Lưu ý: màu bạn chọn sẽ được áp chế độ hòa trộn Colorize rồi mới hiển thị ra kết quả.
Exposure: độ rực sáng của vùng trung gian (khoảng giữa khoảng sáng và tối), tác động chủ yếu vào phần sáng nên hình ảnh trông dễ bị cháy sáng nếu thông số này lớn.
Gloss: tạo độ sâu và mượt cho vùng trung gian do tập trung vào phần tối (thấy rõ hơn với Point Light)
Metallic: tạo độ sâu, mặn mà cho màu sắc của hình ảnh.
Add new Point Light : tạo mới loại đèn lan tỏa từ 1 điểm như nhìn chính diện.
Vòng tròn ngoài cùng là phạm vi phủ sáng của đèn. Ta có thể kéo chuột tạị viền của vòng tròn để thu/ phóng phạm vi này. Còn kéo rê chuột tại vùng trong hoặc ngoài vòng tròn là di chuyển. Vòng tròn nhỏ bên trong vẫn là Intensity độ sang và tâm của nó là hỗ trợ di chuyển. Các thông số Properties tương tự như trên Spot Light.
Add new Infinite Light: tạo mới loại đèn làm nguồn sáng chung cho cả hình ảnh, thao tác điều chỉnh thú vị bằng parabol.
Như tôi có giới thiệu sơ qua về parabol điều chỉnh của Parallel Dicrectional và Soft Direct Lights phía trên, parabol càng úp (elip nhọn tiến tới thẳng hàng) về hướng icon hình mặt trời thì hình càng tối. Ta điều chỉnh parabol bằng cách tác động trực tiếp vào nó hoặc thông qua gậy điều hướng (đây là cách gọi của tôi, không có tên gốc tiếng Anh ^ ^). Khi đầu tròn của gậy điều hướng tiến tới càng gần tâm của vòng tròn Intensity, tương ứng với hình dạng parabol tiến tới hình tròn hoàn hảo, thì độ sáng của đèn càng lớn (đúng mức thông số độ sáng Intensity). Mang tiếng là điều hướng nhưng xin hãy nhớ: đèn này như nguồn sáng chung tỏa rộng cho cả hình ảnh. Các thông số Properties tương tự như trên Spot Light.
Kế bên các dãy nút thêm đèn là nút Reset Current Light, giúp bạn trả về mặc định của loại đèn hiện hành. Vì trong cửa sổ tùy chỉnh của Lighting Effects, lệnh Ctrl + Z (Undo) không có tác dụng, nên nút này trở nên hữu dụng.
Bộ Lọc Blur Trong Filter Của Photoshop Cs6 (Phần 2)
Nhanh chóng làm nhòe vùng chọn theo mức độ có thể điều chỉnh. Giá trị Radius càng cao thì mức độ nhòe càng mạnh.
Box Blur và Gaussian Blur nhìn qua rất khó phân biệt nhưng nếu bạn tăng mức độ Blur từ từ thì sẽ thấy: Box Blur làm mờ hình ảnh từ các biên màu, còn Gaussian Blur thì làm mờ theo kiểu đồng dạng hóa các màu sắc cạnh nhau.
Lens Blur bổ xung độ nhòe vào hình ảnh để tạo ra hiệu ứng cho một vùng có chiều sâu hẹp hơn, vì thế một vài đối tượng trên hình ảnh thì tập trung, còn các vùng khác thì nhòe xung quanh. Lệnh này có thể định nghĩa rõ ràng nhưng cách vận dụng lại khá mơ hồ nên chúng ta sẽ phân tích trực tiếp trên ví dụ sau.
Ví dụ chúng ta có 1 hình trạng thái ban đầu thế này:
– Đầu tiên chúng ta sẽ nhân bản layer nguồn bằng tổ hợp phím Ctrl + J. Mục đích là để lát nữa thuận tiện so sánh sự khác biệt giữa trước và sau khi áp lệnh Lens Blur.
chúng ta tạo vùng chọn quanh 2 bông hướng dương. Sau đó, chuyển vùng chọn đó thành Mask.
– Duplicate layer này thành layer mới, đồng thời ẩn Mask của layer cũ. Mục đích là để lát nữa thuận tiện so sánh sự khác biệt giữa trước và sau khi áp lệnh Lens Blur.
Từ đoạn này trở xuống là thao tác trên layer mới được copy:
Ta cùng phân tích:
– Giữa Faster và More Accurate không khác nhau mấy, chỉ là More Accurate có xu hướng bảo toàn nét hơn, nhưng nếu độ Blur cao thì cả 2 trạng thái này đều rất khó phân biệt.
– Mục Depth Map: Source có 3 chế độ:
+ None: áp blur trực tiếp lên toàn bộ hình như hầu hết những lệnh khác, không thể sử dụng Blur Focal Distance trong chế độ này.
+ Shape: loại hình dáng, góc cạnh của các pixel làm mờ. Các cạnh của hạt càng nhiều càng dễ bị nhiễu/ pha trộn màu.
+ Radius, Blade Curvature và Rotation: các mức độ trải rộng, cong, xoay của các pixel làm mờ.
– Mục Specular Highlights:
+ Brightness: thêm sáng cho vùng làm mờ.
+ Threshold: thêm tối cho những vùng tối và trung tính của vùng làm mờ.
– Mục Noise: tạo hạt (trông như tranh cát)
+ Amount: mức độ nhiễu hạt.
+ Distribution: Uniform: đồng bộ hóa, các hạt khá mềm mại.
Gaussian: các hạt sắc cạnh, rõ ràng hơn.
+ Monochromatic: hạt đơn sắc, hình ảnh giống như được làm từ những hạt các đen nhuộm màu, không bị ảnh hưởng (khác biệt, sai lệch) quá nhiều từ màu gốc.
Kết quả sau khi điều chỉnh hình ảnh trông mờ nhẹ và có chiều sâu hơn như trong hình review phía trên. Tôi không thích lệnh này, thao tác phức tạp mà kết quả thì nếu dùng những lệnh khác có thể nhanh hơn.
Làm nhòe theo hướng cụ thể từ -360 độ đến +360 độ và cường độ xác định từ 1 – 999. Hiệu ứng của bộ lọc này như chụp ảnh đối tượng đang chuyển động.
Bạn có thể chỉnh chính xác hướng Blur bằng cách gõ thông số trong Angle hoặc xoay đường kính của vòng tròn bên cạnh.
Tương tự đối với Distance (Pixels): khoảng cách của các pixel được làm mờ theo hướng đã định. Có thể điều chỉnh bằng thông số cụ thể hoặc thanh trượt. Dùng thêm tùy chọn này, vật chuyển động giống như có thêm độ rung.
Đây là một hiệu ứng rất mạnh. Làm nhòe một cách đa dạng và phong phú hơn theo hướng nan hoa, tỏa tia.
– Amount: điều chỉnh độ nhòe ( để thông số vừa phải để hiệu ứng đẹp nhất )
– Mục Blur method:
+ Spin (xoay tròn) : Làm nhòe dọc theo các đường tròn đồng tâm cuộn xoáy.
+ Zoom (phóng đại) : Làm nhòe theo đường hướng tâm.
– Mục Quality: có 3 chế độ Draft, Good, Best. Trên thực tế cũng không chênh lệch gì nhiều. Thông thường chỉ cần dùng chế độ Good đã rất đẹp rồi, lại không kéo nặng máy hay làm tăng dung lượng ảnh như chế độ Best.
– Blur Center: mặc định đã vậy và luôn luôn tỏa từ tâm như vậy. Nhưng điều tuyệt vời là bạn hoàn toàn có thể chọn tâm cho hiệu ứng bằng cách drag chuột trực tiếp trên khu vực hình vuông Blur Center này.
Hiệu ứng Shape Blur cho phép làm nhòe theo một hình shape được chỉ định.
Bạn đừng để hàng loạt icon shape dễ thương đó “lừa tình”. Shape này chỉ áp lên từng pixel thôi nên dù chọn blur theo hình nào thì sự khác biệt đều không rõ ràng để ta thấy được. Nhưng chương trình vẫn cung cấp cho bạn hàng loạt tùy chọn Shape trong nút Settings nữa.
Làm nhòe chính xác hình ảnh. Làm nhiệm vụ tinh lọc các mảng màu. Nó chuyển hóa hình ảnh về dạng đơn giản của các pixel màu, nói ngắn gọn là đơn sắc hóa các mảng hình ảnh, biến hình chụp sau khi chuyển có dạng như tranh vẽ màu nước.
Bạn hãy quan sát hình được chuyển đổi trong khung review của cửa sổ tùy chọn, đối chiếu với hình ảnh gốc bên ngoài.
Để tăng độ Blur, cần kết hợp thông số Radius (độ mờ chung) và Threshold (độ mờ nét).
– Quality: có 3 mức: Low, Medium và High. Càng cao thì hình càng mịn, đồng nghĩa các mảng màu càng rõ và các đường viền của chi tiết đều được làm mịn.
– Mode: cũng có 3 loại: Normal, Edge Only (hình chụp biến thành hình chỉ có nét trắng nền đen), Overlay Edge (hình chụp biến thành hình vẽ có nét trắng và tô mảng đơn giản).
Hiệu ứng Blur này có tên gọi rất “kiêu” (Smart – thông minh) có lẽ do nó sỡ hữu khả năng để góp mặt vào ứng dụng đáng giá như: biến hình chụp thành hình vẽ; giảm nhẹ/ triệt tiêu sự nhiễu hạt/ răng cưa của viền, và góp sức trong công nghệ làm đẹp như chỉnh đều màu da chẳng hạn…
Hiệu ứng Surface Blur cho phép làm nhòe, tạo bề mặt mịn, trơn nhẵn, gỡ bỏ các hạt chấm chấm mà vẫn bảo toàn chi tiết các cạnh.
Tôi có một bức ảnh nguồn nhhư hình dưới:
Sau khi thực hiện hiệu ứng Surface Blur thì nó được như sau:
Tùy chỉnh có 2 thông số Radius và Threshold như lệnh Smart Blur. Nhưng… nếu Smart Blue trên là gom lại thành nhiều mảng sắc và rõ ràng thì Surface Blur lại tán màu ra cho tinh mịn và có vẻ “mờ sương”.
Threshold của lệnh này khá mạnh, vừa điều khiển nét (thông số nhỏ, kết hợp Radius cao), vừa quyết định độ “dày” của “lớp sương” (thông số lớn).
Kết qủa trông như thế này (dĩ nhiên là tôi đã dùng Healing Brush Tool để xóa nếp nhăn trước khi áp lệnh Surface Blur và sau đó lại áp Noise một chút cho tự nhiên hơn,
Nếu bạn có ý định học thiết kế đồ họa hãy tham khảo một số chương trình học sau:
Cách Sử Dụng Filter Trong Photoshop
Box Blur: Box Blur là một dạng làm nhòe ảnh dựa theo giá trị màu trung bình của các pixel xung quanh, rất hữu ích cho việc tạo ra các hiệu ứng đặc biệt. Có thể hiệu chỉnh độ nhòe bằng cách tăng giảm kích thước vùng màu trung bình của các pixel.
Gaussian Blur: Nhanh chóng làm nhòe vùng chọn theo mức độ có thể điều chỉnh. Giá trị Radius càng cao thì mức độ nhòe càng mạnh. Box Blur và Gaussian Blur nhìn qua rất khó phân biệt nhưng nếu bạn tăng mức độ Blur từ từ thì sẽ thấy: Box Blur làm mờ hình ảnh từ các biên màu, còn Gaussian Blur thì làm mờ theo kiểu đồng dạng hóa các màu sắc cạnh nhau.
Lens Blur: Lens Blur bổ xung độ nhòe vào hình ảnh để tạo ra hiệu ứng cho một vùng có chiều sâu hẹp hơn, vì thế một vài đối tượng trên hình ảnh thì tập trung, còn các vùng khác thì nhòe xung quanh. Lệnh này giống như ứng dụng lấy nét của máy ảnh kỹ thuật số hoặc camera của smart phone.
Motion Blur: Làm nhòe theo hướng cụ thể từ -360 độ đến +360 độ và cường độ xác định từ 1 – 999. Hiệu ứng của bộ lọc này như chụp ảnh đối tượng đang chuyển động.
Radial Blur: Đây là một hiệu ứng rất mạnh. Làm nhòe một cách đa dạng và phong phú hơn theo hướng nan hoa, tỏa tia.
Shape Blur: Hiệu ứng Shape Blur cho phép làm nhòe theo một hình shape được chỉ định.
Shape này chỉ áp lên từng pixel nên dù chọn blur theo hình nào thì sự khác biệt đều không rõ ràng để ta thấy được.
Smart Blur: Làm nhòe chính xác hình ảnh. Làm nhiệm vụ tinh lọc các mảng màu. Nó chuyển hóa hình ảnh về dạng đơn giản của các pixel màu, nói ngắn gọn là đơn sắc hóa các mảng hình ảnh, biến hình chụp sau khi chuyển có dạng như tranh vẽ màu nước.
Surface Blur: Hiệu ứng Surface Blur cho phép làm nhòe, tạo bề mặt mịn, trơn nhẵn, gỡ bỏ các hạt chấm chấm mà vẫn bảo toàn chi tiết các cạnh.
Polar Coordinates: Chuyển vùng chọn từ tọa độ vuông góc sang tọa độ cực và ngược lại.
Ripple: Tạo hiệu ứng gợn sóng lăn tăn trên vùng chọn hoặc toàn hình ảnh.
Shear: Làm biến dạng hình ảnh dọc theo đường cong.
Spherize: Biến dạng hình ảnh theo khối cầu, phạm vi tỏa ra từ tâm đến cạnh biên của toàn vùng chọn/ hình ảnh, không giống như lệnh Pinch – chỉ tác động 1 vùng nhỏ tính từ tâm tỏa ra.
Twirl: Xoáy hình ảnh mạnh dần về phía tâm. Hiệu ứng này giúp tạo ra những background độc đáo.
Wave: Tạo gợn sóng mạnh.
3 – Noise: Là một nhóm các bộ lọc có chức năng chính là điều chỉnh các pixel trên hình ảnh bị hạt, tạo hạt hoặc khử hạt.
Add Noise: Bộ lọc Add Noise có chức năng tạo hạt cho hình ảnh, làm hình ảnh trông như tranh cát hoặc giả lập độ mịn, độ nét…
Despeckle: Bộ lọc Despeckle phát hiện phần bị hạt giữa các mảng khác màu giao nhau và làm mờ nó đi để giảm nhiễu hạt, nhưng vẫn giữa lại độ nét trung bình cho các chi tiết của tổng thể. Do Despeckle không có bất cứ tùy chọn gì nên nó vô tình “bào nhẵn” luôn cả nền và viền của chi tiết (dù không nhiều).
Dust & Scratches: lọc giảm nhiễu hạt trực quan bằng cách thay đổi các điểm ảnh liền kề nhau bằng các điểm màu chiếm đa số trong mảng đó.
Median: Bộ lọc Median gom các điểm ảnh có độ sáng và màu sắc tương đồng nhau thành từng mảng đồng nhất, giúp loại bỏ hoặc làm giảm sự xuất hiện của các điểm ảnh bị nhiễu hoặc những đốm màu không mong muốn.
Reduce Noise: Bộ lọc này hỗ trợ giảm nhiễu hạt màu sắc và nhiễu hạt độ sáng, với hệ thống điều chỉnh 2 tầng: Basic và Advanced.
Color Halftone: đưa ảnh về dạng pixel dạng tròn.
Crystalize: Bộ lọc này phân mảnh hình ảnh thành những pixel có dạng đa giác (ngẫu nhiên) xếp khít (sát cạnh) nhau.
Facet: Trên lý thuyết, bộ lọc Facet tạo một lớp như các khối màu đặc. Bạn có thể sử dụng bộ lọc này để làm một hình ảnh trông như quét sơn bằng tay hoặc một bức tranh trừu tượng. Hãy đưa hình ảnh về độ phân giải thấp và thử dùng bộ lọc này bạn sẽ thấy kết quả.
Fragment: Hình ảnh sau khi áp bộ lọc Fragment thì trông hơi mờ đục và tinh mịn, mục đích triệt tiêu độ sắc cạnh của các pixel.
Mezzotint: đưa mỗi pixel về màu cơ bản theo dạng Dot, Line, Stroke.
Mosaic: phân mảng hình ảnh thành những hình vuông đơn sắc.
Pointillize: Tương tự như cách hoạt động cua các bộ lọc trên, bộ lọc Pointillize phân mảng hình ảnh thành các điểm ngẫu nhiên, bắt dính cũng ngẫu nhiên tạo cảm giác như các điểm màu đang trôi nổi trên trang làm việc.
Clouds: Tạo mây bằng cách dùng các giá trị ngẫu nhiên biến đổi giữa màu foreground và background.
Difference Clouds: Vẫn là hiệu ứng Clouds trên nhưng kết hợp với chế độ hòa trộn Difference. Cũng không có thêm tùy chọn nào, kết quả cũng ngẫu nhiên, vì là Difference nên màu sắc kết quả có xu hướng sậm màu hơn so với màu foreground và background.
Fibers: Lệnh Fibers kết hợp màu foreground và background để giả lập các dạng chất liệu sợi, bố,…được kết thành từng thớ liên tục.
Lighting Effects: Bộ lọc Lighting Effects cho phép bạn hiệu chỉnh kiểu chiếu sáng, loại nguồn sáng, thuộc tính chiếu sáng và kênh chứa mẫu kết cấu.
Sharpen: Làm sắc nét hình ảnh cơ bản, chế độ tự động, áp dụng chung cho cả hình ảnh, không có chọn lọc và cũng không cung cấp bất cứ tùy chọn nào.
Sharpen Edges: Tương tự như Sharpen, nhưng tập trung nhiều vào nét viền, đường biên đối tượng trong ảnh, cũng tự động và không có tùy chọn nào khác.
Sharpen More: Mỗi lần áp dụng là mỗi lần tăng Sharpen lên 1 bậc.
Smart Sharpen: Bộ lọc làm sắc thông minh này có 2 chế độ: Basic (cơ bản) và Advanced (chuyên sâu).
– Amount: mức độ làm sắc cạnh. Các pixel mang màu sắc trung gian được tạo ra nên nếu Amount càng lớn thì các pixel càng dày đặc, sự khác biệt so với ảnh gốc càng rõ ràng.
– Radius: Độ xoay hay vát sắc cạnh của pixel. Thông số này tốt nhất đừng vượt quá 5px.
– Remove: giúp loại bỏ các yếu tố gây nhiễu như: Gaussian Blur, Lens Blur, Motion Blur (chỉ có Motion Blur là áp dụng được độ Angle bên dưới nó)
– More Accurate: độ sắc cạnh được chính xác hơn, đồng nghĩa sẽ bị răng cưa nhiều hơn, nên nếu bạn đã cho thông số Radius cao và áp dụng Remove thì không nên chọn cái này.
Thẻ Shadow (áp dụng cho vùng tối màu) và Highlight (áp dụng cho phần sáng màu)
– Fade Amount: độ “phai” của mảng màu sáng/ tối. Các pixel trung gian mang màu sát với tông sáng/ tối chủ đạo hơn, nên dù có tăng thông số này lên thì cũng thay đổi không nhiều, nhưng hình ảnh trông sẽ mượt hơn, không quá gắt như Amount của Basic.
– Tonal Width: độ trải của màu sáng/ tối chủ đạo.
– Radius: độ chênh lệch giữa các mảng pixel.
Unsharp Mask: chế độ làm sắc mạnh hơn Smart Sharpen. Thông số Amount và Radius giống như trên, nhưng vì bộ lọc này chỉ “mạnh” chứ không có nhiều tùy chọn “sâu” như Smart Sharpen nên việc nhiễu răng cưa là không thể tránh. Nhờ có tùy chọn Threshold, khử răng cưa do 2 thông số trên tạo ra, “mài nhẵn” các vùng nhiễu hạt hay tán sắc. Threshold có thể dao động từ 0 đến 255 levels, nhưng khi Radius < 10, Threshold sẽ mất tác dụng nếu thông số vượt quá 100.
7 – Stylize Diffuse: Xáo trộn, phân tán các điểm ảnh gần nhau khiến cho vùng chọn bớt sắc nét.
Embos: Khiến cho vùng chọn có vẻ nổi lên hoặc lõm xuống bằng cách chuyển dạng màu tô thành màu xám và đồ lại các cạnh bằng màu tô nguyên thủy theo sắc độ trắng – đen.
Extrude: Tạo nên các hình khối lập phương hoặc kim tử tháp trên hình ảnh ban đầu, trông như hiệu ứng vụ nổ phân mảnh đều. Tuy nhiên, nó vẫn bảo toàn được màu sắc của ảnh.
Find Edges: Đồng nhất hình ảnh bằng nền trắng, căn cứ vào độ chênh lệch chuyển tiếp từ các vùng màu tối và màu sáng để xác định viền và làm nổi bật viền bằng màu tối hơn. Những viền càng đậm, càng rõ ràng tức là vị trí tại đó có độ chênh lệch màu sắc giữa sáng tối càng lớn.
Solarize: Pha trộn một ảnh âm bản với một ảnh dương bản tương tự như khi một bản in đang được phơi sáng. Tiles: Phân mảng hình ảnh thành một loạt những mảnh ghép và dịch chuyển chúng lệch đi (ngẫu nhiên) một chút. Trace Contour: Tìm những sự chuyển tiếp giữa các khu vực sáng nhất và vẽ nét viền mảnh lên đó bằng các kênh màu khác nhau.
– Vị trí có độ tương phản sáng – tối càng cao thì màu tại đó càng đậm.
– Màu sắc của viền tuy nói là theo kênh màu nhưng thực tế là mang màu tương phản với màu của hình ảnh gốc. Wind: Tạo ra các vạch ngang rất nhỏ trên ảnh để giả lặp hiệu ứng gió tạt.
8. Other Custom: Mặc dù tên gọi là “tùy biến” nhưng thực chất ta chỉ tác động lên độ sáng/ tối của hình ảnh bằng cách áp cho khu vực tại đó 1 con số cụ thể.
Cơ chế hoạt động: hình ảnh được (giả lập) phân chia thành 25 ô (gọi là khu vực “ma trận”) như trong cửa sổ tùy chọn. Nếu muốn vùng nào đó trên hình ảnh sáng hơn thì điền tại ô đó 1 con số dương, muốn vùng đó tối hơn thì điền 1 con số âm. Số càng lớn thì vị trí đó trên hình sẽ càng sáng/ tối. Con số sử dụng trong khoảng từ -999 đến 999, hiệu ứng phản sáng rất mạnh nên hầu như ta chỉ sử dụng trong khoảng -50 đến 50. Những ô liền kề nhau, thuộc những mảng màu gần gần giống nhau (tương đồng sắc độ) thì độ chính xác của những ô số sẽ không cao. Chúng ta không cần phải điền số vào hết tất cả các ô.
– Scale: độ tản sáng của các điểm ảnh. Scale dao động từ 1 đến 9999. Khi Scale = 1, các điểm ảnh sẽ ở mức sáng cực đại của thông số đã nhập vào ma trận. Bởi vậy khi ma trận chứa những con số càng lớn thì hình ảnh bị cháy sáng càng gắt, bị vỡ hạt, thậm chí các nét trong hình bị lệch biên. Khi tăng Scale = 2, độ sáng của các điểm ảnh được chia đôi, cứ thế, càng tăng scale thì độ sáng càng giảm theo hệ nhị phân.
– Offset: độ bù màu cho Scale. Nếu Scale chỉ nhắm vào việc khuếch trương độ sáng cho những điểm ảnh tại những vùng được điền số trong ma trận, thì Offset sẽ giữ lại màu sắc của hình ảnh và tán sáng đều ra cho toàn hình ảnh. Offset hiệu quả hơn khi thông số lớn hơn Scale trong khoảng từ 1 đến 40 đơn vị. Vượt ngoài khoảng này, hình ảnh sẽ bị mờ hoặc mất màu.
Điều tuyệt vời của bộ lọc Custom này là hình ảnh trông sẽ nét hơn khi bạn áp dụng hài hòa những thông số trong ma trận, Scale và Offset.
Ngoài ra, Custom còn cho phép Save lại tùy chỉnh như 1 dạng mẫu để những lần sau có thể Load lên dùng tiếp. Maximum: Bộ lọc Maximum nhận dạng và khuếch trương phạm vi ảnh hưởng của những pixel mang độ sáng cao nhất từ rộng dần đến cực đại.
Minimum: Nếu Maximum tập trung vào những điểm sáng thì Minimum lại tập trung khuếch trương những điểm tối, và tương tự, Radius của nó cũng rất mạnh.
Offset: Đúng như tên gọi: Offset (bù vào), bộ lọc này căn cứ vào tọa độ, chi tiết, màu sắc đường biên của hình (hoặc vùng chọn) để bù vào khoảng trống được tạo ra do di chuyển tọa độ hình gốc mà ta đã đặt cho các thông số.
Hướng Dẫn Cách Dùng Bộ Lọc Tự Động (Autofilter) Trên Excel
Có hai loại AutoFilters trong Excel, đó là AutoFilters và List (Table) AutoFilters. Nếu bạn đang sử dụng AutoFilter, hãy chắc chắn rằng chúng được thiết kế cho loại Bộ lọc tự động có trong sổ làm việc của bạn trên Excel.
Bộ Lọc Tự Động Excel
Trong Excel, nếu bạn có một phạm vi ô có hàng chứa tiêu đề và hàng chứa dữ liệu, bạn có thể sử dụng tính năng Tự động lọc.
Xem hướng dẫn Bấm vào đây
Cách tạo bộ lọc tự động trên bảng tính
Ở phiên bản cũ của Excel, chỉ có một loại Trình lọc tự động – Trình lọc tự động bảng tính.
Bạn có thể sử dụng AutoFilters của bảng tính và hình ảnh bên dưới sẽ cho thấy cách chúng hoạt động
Có các bộ lọc trong Danh sách B
Bấm vào Danh sách A và bấm lệnh Lọc
Excel tự động xóa các bộ lọc khỏi Danh sách B
Bấm lại lệnh Bộ lọc và Excel đã thêm bộ lọc vào Danh sách A
Liệt kê các bộ lọc tự động
Trong Excel 2007 và các phiên bản mới hơn, có loại Bộ lọc tự động thứ hai – Bộ lọc tự động danh sách.
Nếu bạn định dạng phạm vi dưới dạng bảng Excel có tên , tính năng Tự động lọc sẽ được bật tự động. Bạn sẽ thấy các mũi tên trong hàng tiêu đề và bạn có thể sử dụng chúng để lọc một trong các cột khác.
Bạn có thể có nhiều Bộ lọc tự động danh sách trên mỗi trang tính, như bạn có thể thấy trong ảnh chụp màn hình bên dưới.
Tạo lệnh lọc tự động bằng Macro VBA
Nhìn chung, hai loại AutoFilters hoạt động khá giống nhau khi bạn làm thủ công mọi thứ trên bảng tính.
Tuy nhiên, bạn có thể gặp lỗi khi bạn đang sử dụng macro Excel để áp dụng với AutoFilter
Nếu bạn vừa có một bảng được đặt tên trên một Sheet, có lẽ bạn có thể sử dụng một macro được thiết kế cho một trong hai loại Trình lọc tự động
Nếu bạn có nhiều bảng được đặt tên, hãy chắc chắn sử dụng một macro được thiết kế cho Danh sách bộ lọc tự động.
Cách bỏ bộ lọc tự động
Macro này được thiết kế cho Bộ lọc tự động trên bảng tính, nhưng cũng có thể xóa các bộ lọc trong bảng Excel đã lọc.
Sub ShowAllRecordsWS() With ActiveSheet.AutoFilter If .FilterMode Then .ShowAllData End If End With End Sub Sub ShowAllRecordsList1() Dim Lst As ListObject Dim ws As Worksheet Set ws = ActiveSheet Set Lst = ws.ListObjects(1) With Lst.AutoFilter If .FilterMode Then .ShowAllData End If End With End SubQua bài viết này, chúng ta đã có thể biết được cách ứng dụng Macro để tự động hóa cho thao tác lọc dữ liệu bằng AutoFilter. Để tìm hiểu thêm các ứng dụng khác của VBA trong công việc, các bạn hãy truy cập ngay địa chỉ: https://gitiho.com/
Cập nhật thông tin chi tiết về Bộ Lọc Filter Render Trong Photoshop trên website Utly.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!